Các phương pháp điều trị bướu giáp nhân

Bướu giáp là bệnh lý nội tiết phổ biến đứng hàng thứ 2 sau đái tháo đường. Theo một số thống kê tỉ lệ bướu giáp gặp từ 19-67% trong dân số, đặc biệt tăng cao ở những vùng thiếu iot. Lựa chọn điều trị bướu giáp nhân tùy thuộc vào nguy cơ ung thư, triệu chứng chèn ép và nhân giáp có tăng chức năng hay không. Đa số bướu giáp nhân lành tính không cần điều trị đặc hiệu, chỉ cần theo dõi định kỳ bằng siêu âm từ 6 tháng đến 18 tháng kể từ lần đánh giá ban đầu. Nếu ổn định, đánh giá lại sau 3 năm đến 5 năm

Các biện pháp điều trị chủ yếu như sau:

1. Điều trị bằng nội khoa (thyroxine)

Chỉ định điều trị ức chế bằng thyroxine còn nhiều tranh cãi. Điều trị ức chế bằng thyroxine có nguy cơ gây rung nhĩ, và giảm mật độ xương. Do đó, Hiệp hội Tuyến giáp Hoa Kỳ khuyến cáo không điều trị ức chế bằng thyroxine thường quy cho bệnh có bướu giáp nhân lành tính. Có thể cân nhắc điều trị trên một số đối tượng như bệnh ở vùng thiếu hụt iod, tiền sử có xạ trị vùng cổ và những bệnh nhân trẻ lo lắng về nguy cơ phát triển của bướu giáp. Không nên điều trị ức chế bằng thyroxine ở bệnh nhân bướu giáp nhân trên 60 tuổi, có bệnh mạch vành đi kèm, có rối loạn nhịp tim, TSH thấp, bệnh có bướu nhân to hoặc bướu giáp nhân đã được chẩn đoán từ lâu.

2. Phẫu thuật

Chỉ định phẫu thuật khi kết quả FNA (Sinh thiết tế bào tuyến giáp bằng kim nhỏ dưới hướng dẫn của siêu âm) là ung thư hoặc nghi ngờ ung thư tuyến giáp trên lâm sàng. Bướu giáp nhân lành tính gây ra các triệu chứng chèn ép rõ hoặc ảnh hưởng đến thẩm mỹ cũng có thể phẫu thuật. Tuy nhiên có tỷ lệ tai biến, biến chứng nhất định như: chảy máu, nhiễm trùng vết mổ, mất giọng nói, khàn tiếng, hạ canxi gây suy giáp…để lại sẹo, ảnh hưởng thẩm mỹ.

3. Điều trị bằng iod phóng xạ (I131)

Điều trị bằng iode phóng xạ được lựa chọn cho những bệnh nhân có bướu giáp nhân hoạt động (nhân nóng trên xạ hình), có kèm hoặc không kèm theo cường giáp.

4. Tiêm cồn qua da

Tiêm cồn qua da có tác dụng điều trị tốt đối với nang giáp nhưng ít hiệu quả với nhân giáp đặc.

5. Đốt sóng cao tần (RFA)

Bác sĩ thực hiện đốt sóng cao tần bằng kỹ thuật RFA

RFA gây ra sự hoại tử cục bộ bằng cách đưa dòng xoay chiều cao tần số tạo nhiệt độ mô tăng lên đến 60°C đến 100°C để làm cho tế bào chết. Nó đã được sử dụng trong hơn một thập kỷ qua để điều trị u gan, thận, xương. Nhiều nghiên cứu đã có chứng minh kết quả tốt bằng cách sử dụng RFA để điều trị nhân giáp, thành công trong việc làm giảm kích thước của nhân và các triệu chứng liên quan đến chúng. Với ưu điểm vượt trội không phẫu thuật, không gây mê, người bệnh điều trị ngoại trú, thời gian làm thủ thuật nhanh chỉ từ 15 – 30 phút, nằm theo dõi 1 giờ có thể ra về, không có sẹo và không phải uống thuốc sau điều trị.

Tóm lại, các phương pháp điều trị kể trên đều có những ưu nhược điểm. Tuy nhiên, đốt sóng cao tần (RFA) đã chứng minh được ưu thế trong điều trị bướu giáp nhân lành tính với các ưu điểm kể trên.